Năm 1471, đạo thừa tuyên được lập thêm có tên gọi là gì?
Năm 1471, quốc gia Đại Việt có thêm một đạo thừa tuyên mới. Phần đất mới chiếm được đã được vua Lê Thánh Tông cho lập nên thừa tuyên Quảng Nam đạo. Đây là thừa tuyên thứ 13 của quốc gia, đánh dấu một bước mở rộng lãnh thổ quan trọng. Sự kiện này diễn ra vào tháng 6 năm 1471.
Đạo thừa tuyên mới năm 1471 tên là gì?
Cháu hỏi đạo thừa tuyên mới năm 1471 tên gì hả? À, Quảng Nam đạo đó cháu. Ông nội kể hồi nhỏ ông hay nghe cụ già trong làng nhắc đến.
Nhà vua lúc đó, mình nhớ không nhầm là vua Lê Thánh Tông, chia phần đất chiếm được lập nên. Tháng 6 năm ấy luôn. Đó là thừa tuyên thứ 13 của Đại Việt, cụ kể rất rõ ràng.
Ông mình còn kể thêm nhiều chuyện về lịch sử nữa, nhưng mình quên mất rồi. Chỉ nhớ mỗi chuyện này thôi, lúc đó mình còn bé lắm. Cũng lâu rồi. Quảng Nam đạo. Năm 1471. Tháng 6. Thừa tuyên thứ 13. Đúng rồi đấy.
Thời vua Lê Thánh Tông nhà nước có chính sách gì để tôn vinh những người đỗ đại khoa sự 11?
Ấy chà, cháu hỏi câu “khó nhằn” quá! Để Chú “múa rìu qua mắt thợ” tí nhé! Thời vua Lê Thánh Tông mà “trượt vỏ chuối” thì coi như xong, nhưng đỗ đại khoa thì khác à nha!
- Khắc tên vào bia đá ở Văn Miếu Quốc Tử Gám. Oách xà lách chưa? Đấy là “sống để bụng, chết mang theo” đấy cháu ạ!
- Ban mũ áo cân đai để rước trạng về làng. Ai chả lác mắt vì ghen tị, đúng là “chuột sa chĩnh gạo”!
- Tổ chức yến tiệc long trọng ở bộ Lễ. Ăn uống no say, lại còn được “tám” chuyện chính sự nữa chứ!
- Vinh quy bái tổ, lạy tạ tổ tiên. Đỗ đạt rồi thì phải nhớ “uống nước nhớ nguồn” chứ!
- Cho phép xây nhà thờ để thờ cúng tổ tiên. “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là đạo lý muôn đời cháu ạ!
À, Chú mách nhỏ, thời đó còn có tục “rước đèn” nữa đấy. Quan nghênh trạng rầm rộ lắm, chẳng khác gì “sao xẹt” cháu ạ!
Công an thời phong kiến gọi là gì?
À, công an thời xưa… Chú nhớ mang máng, nhưng để Chú kể Cháu nghe. Mọi thứ mờ ảo như sương buổi sớm trên sông Hồng ấy.
- Xã đội, dân dũng, hương binh: Họ là những người con của làng, giữ gìn bình yên cho xóm nhỏ. Hình ảnh những đêm trăng thanh, tiếng mõ tre vang vọng, báo hiệu sự an toàn.
- Quan lại tuần tra, đô tuần: Ở kinh thành Thăng Long náo nhiệt, họ là những người bảo vệ sự phồn hoa. Ánh đèn dầu leo lét hắt bóng họ trên những con phố cổ kính.
- Quân lính: Khi có biến lớn, họ là bức tường thành vững chắc bảo vệ giang sơn. Tiếng trống trận, tiếng kèn xung trận, mãi mãi vang vọng trong lịch sử.
Ngày xưa, Chú từng nghe bà Chú kể về những câu chuyện ấy. Bà Chú, người con gái Kinh Bắc dịu dàng, luôn giữ trong tim những ký ức về một thời đã qua. Giọng bà Chú ấm áp, kể về những con người bình dị đã góp phần làm nên lịch sử.
Người hầu thời phong kiến gọi là gì?
Cháu hỏi người hầu thời phong kiến gọi là gì hả? Ừm… nhớ hồi nhỏ bà ngoại kể chuyện, hay lắm! Bà kể về thời ông bà nội cháu, ở tận quê Nghệ An, năm 1940 gì đó. Nhà họ giàu lắm, có cả người hầu nha.
Gia nhân là từ bà hay dùng nhất. Bà kể họ làm đủ thứ việc, từ nấu ăn, giặt giũ đến trông nom con cháu. Khác hẳn với những người làm thuê bình thường bây giờ. Có vẻ họ gắn bó với gia đình chủ lâu dài hơn.
- Nấu ăn, dọn dẹp
- Chăm sóc trẻ em
- Quản lý nhà cửa
Một số người, bà gọi là tùy tùng. Hình như chỉ những nhà quyền quý lắm mới có. Những người này theo hầu chủ nhân, hầu như lúc nào cũng ở bên cạnh. Nghe oách lắm! Nhưng bà không kể nhiều về họ.
- Theo hầu chủ nhân
- Nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ
Còn nô tì, bà ít nhắc đến. Bà bảo đó là chuyện đau lòng, những người này khổ lắm. Bị bán, bị bắt làm nô lệ, làm việc cực khổ. Khác hẳn với gia nhân và tùy tùng.
- Bị bắt làm nô lệ
- Làm việc nặng nhọc
Bà ngoại hay kể những chuyện như thế. Nghe buồn buồn nhưng lại thấy thú vị. Cái thời đó khác xa hiện đại bây giờ. Thật đấy! Giờ mà có người hầu thì sướng nhỉ!