Người là tiếng Hán Việt là gì?

1 lượt xem

Người trong tiếng Hán Việt thường được biểu đạt qua các từ như: nhân (人), chỉ con người nói chung; sinh (生), mang nghĩa là sống, được sinh ra, thường dùng khi nói về người lạ hoặc sự mới mẻ; đôi khi dùng giả (者), chỉ người nào đó.

  • Nhân: nhân loại (人類), nhân tài (人才), nhân viên (人員)...
  • Sinh: sanh nhân (生人) - người lạ, sanh diện (生面) - mặt lạ, sanh tự (生字) - chữ mới.
  • Giả: tác giả (作者) - người viết, độc giả (讀者) - người đọc.

Tùy ngữ cảnh, mỗi từ sẽ mang sắc thái nghĩa khác nhau. Sinh nhấn mạnh sự mới mẻ, chưa quen thuộc. Nhân mang nghĩa khái quát, chỉ con người.

Góp ý 0 lượt thích

À, cái này thú vị nè! Hồi học Hán Việt mình cũng hay lẩm nhẩm mấy từ này. “Người” trong tiếng Hán Việt thì có nhiều từ lắm, tùy ngữ cảnh mà xài cho đúng. Thường gặp nhất là “nhân” (人), kiểu như “nhân loại”, “nhân tài” đó. Nghĩ cũng đúng, “nhân” là con người mà, chung chung nhất.

Còn “sinh” (生) thì hay dùng cho cái gì mới mẻ, lạ lẫm. Ví dụ như gặp người lạ hoắc thì gọi là “sanh nhân”. Nhớ hồi xưa đi học xa nhà, lên thành phố toàn gặp “sanh nhân” không hà! Cảm giác bỡ ngỡ thấy rõ. “Sanh tự” cũng vậy, toàn chữ mới toanh chưa biết đọc. À mà “sanh diện” nữa, mặt lạ hoắc!

Rồi còn “giả” (者) nữa chứ. “Tác giả”, “độc giả” là thấy rõ rồi. Cái này thì dễ nhớ, tại mình toàn làm “độc giả” thôi, chả dám mơ làm “tác giả”! Haha!

Nói chung là, muốn dùng từ nào thì phải xem xét ngữ cảnh. “Nhân” thì chung nhất, “sinh” là mới mẻ, còn “giả” thì chỉ người làm gì đó. Đơn giản vậy thôi mà hồi xưa mình cứ lộn tùng phèo lên. Giờ nghĩ lại thấy cũng buồn cười!