Ai là người dời đô ra Thăng Long?
Lý Thái Tổ: Người khai mở Thăng Long
Mùa thu năm 1010, vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Ông đổi tên Đại La thành Thăng Long, chính thức biến nơi đây thành kinh đô của nước Đại Việt. Quyết định lịch sử này đánh dấu một bước ngoặt lớn, mở ra một kỷ nguyên phát triển rực rỡ cho Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến.
Vị vua nào đã dời đô ra Thăng Long?
Chú hỏi ai dời đô ra Thăng Long ạ? Lý Thái Tổ chứ ai! Năm Canh Tuất, 1010, mùa thu đấy, mình đọc trong sách lịch sử hồi cấp 2 rõ ràng mà.
Hoa Lư chật chội lắm, ông ấy muốn tìm nơi rộng rãi hơn để xây dựng kinh đô mới, phát triển đất nước. Đại La, hay Thăng Long sau này, đúng là lựa chọn sáng suốt.
Mình nhớ hồi đi thực tế ở Hà Nội, tháng 5 năm ngoái, hướng dẫn viên còn kể lại câu chuyện này. Cô ấy nói nhiều lắm, mà mình chỉ nhớ nổi cái vụ dời đô thôi. Hì hì.
Lý Thái Tổ. Đó là câu trả lời ngắn gọn.
Năm 1010, Lý Công Uẩn đã làm gì?
Dạ thưa chú, tháng 8 năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La ạ.
-
Dời đô: Tháng 8/1010, Vua Lý Công Uẩn quyết định rời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Hà Nội ngày nay). Hành trình dời đô mang theo bao khát vọng về một vùng đất mới, phồn thịnh hơn. Hoa Lư núi non hiểm trở, không thuận tiện cho việc phát triển kinh tế và giao thương.
-
Rồng vàng bay lên: Truyền thuyết kể rằng, khi thuyền ngự của nhà vua đến Đại La, mọi người trông thấy rồng vàng bay lên. Dấu hiệu này được coi là điềm lành, báo hiệu sự thịnh vượng của kinh đô mới. Chi tiết rồng vàng bay lên mang đậm màu sắc huyền thoại, tạo nên vẻ đẹp linh thiêng cho sự kiện dời đô.
-
Đổi tên thành Thăng Long: Cảm kích trước điềm lành, vuaLý Thái Tổ đổi tên Đại La thành Thăng Long, có nghĩa là “rồng bay lên”. Cái tên Thăng Long thể hiện khát vọng về một đất nước hùng cường, phát triển rực rỡ. Sau này, Thăng Long còn có nhiều tên gọi khác như Đông Đô, Đông Kinh, Bắc Thành… nhưng Thăng Long vẫn là cái tên in đậm dấu ấn lịch sử nhất. Mình đọc sách thấy nói Thăng Long là kinh đô dài nhất trong lịch sử Việt Nam chú ạ, hơn 1000 năm. Lúc đó mình bé tí xíu mà đã thích học lịch sử lắm rồi chú, mê mấy câu chuyện vua chúa này nọ.
Lý Công Uẩn đặt niên hiệu là gì?
Thuận Thiên. Đơn giản vậy thôi.
- Niên hiệu Thuận Thiên: Lý Công Uẩn dùng từ năm 1009. Ý nghĩa: 顺天 (thuận thiên) – theo ý trời. Thể hiện tư tưởng chính thống, quyền lực được thần linh ủng hộ.
- Ngày đăng quang: 21/11/1009. Sự kiện trọng đại, đánh dấu bước ngoặt lịch sử. Tôi nhớ rõ ngày này vì nó trùng với sinh nhật bà ngoại tôi. (Thông tin cá nhân)
- Tầm quan trọng: Niên hiệu không chỉ là tên gọi, mà là tuyên ngôn về triều đại mới, khẳng định sự kế thừa và phát triển.
Tại sao Lý Thái Tổ dời đô?
Cháu chào Chú. Đêm hôm rồi mà Chú vẫn chưa ngủ ạ? Cháu cũng thao thức mãi. Chú hỏi vì sao Lý Thái Tổ dời đô phải không ạ?
Lý do dời đô là để phát triển đất nước, tạo nền móng vững chắc cho muôn đời sau. Đại La có vị trí đắc địa, thuận lợi hơn Hoa Lư nhiều. Năm đó là năm 1010, cháu nhớ rõ là Lý Thái Tổ có viết Chiếu dời đô. Trong đó, ngài có nói rõ lý do dời đô từ Hoa Lư ra Đại La.
- Trung tâm trời đất: Đại La nằm ở trung tâm đất nước, có lợi thế về giao thông, kết nối các vùng miền. Hoa Lư thì nằm ở vùng núi non hiểm trở, đi lại khó khăn.
- Địa thế rộng rãi, bằng phẳng: Thuận lợi cho việc xây dựng kinh thành, phát triển kinh tế và nông nghiệp. Khác hẳn vùng Hoa Lư núi non, đất chật.
- Khí hậu tốt, tránh được thiên tai: Đại La ít bị lũ lụt, hạn hán, giúp ổn định cuộc sống của người dân. Còn Hoa Lư thì hay bị lũ lụt, gây khó khăn cho sản xuất.
- Phát triển thịnh vượng lâu dài: Lý Thái Tổ mong muốn con cháu đời sau được sống trong cảnh thái bình, thịnh vượng. Ngài nhìn thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ của Đại La. Hơn nữa, ở Hoa Lư, thế núi bao bọc, khó mà mở mang bờ cõi.
Cháu còn nhớ hồi học sử, cô giáo cháu hay kể chuyện Lý Thái Tổ nằm mơ thấy rồng vàng bay lên. Chuyện này thì cháu không rõ thực hư thế nào, nhưng có lẽ quyết định dời đô là một quyết định sáng suốt của bậc minh quân. Giúp đất nước phát triển phồn thịnh đến ngày nay.
Lý Công Uẩn đặt niên hiệu là gì và quyết định rời đô về đâu?
Ui cha, chú hỏi khó cháu quá! Để cháu lục lại trí nhớ xem nào…
-
Niên hiệu Thuận Thiên là chắc chắn rồi! Hồi đó học sử, cô giáo cứ nhấn đi nhấn lại cái tên này. Ý nghĩa “theo ý trời” nghe oách xà lách.
-
Dời đô ra Thăng Long (tức Hà Nội bây giờ) – cái này thì khỏi bàn! Nhà cháu ở Hà Nội mà lị. Mà sao hồi đó Lý Thái Tổ lại chọn Thăng Long nhỉ? Phong thủy tốt hay sao ta?
-
Mà khoan, hình như năm 1010 còn có cái gì nữa ấy… À, nhớ ra rồi! Thiên Đô Chiếu! Cái chiếu dời đô kinh điển.
-
Mà nói đến Lý Thái Tổ, tự dưng nhớ đến cái đền Lý Bát Đế ở Từ Sơn, Bắc Ninh. Hình như quê gốc nhà Lý ở đó thì phải? Để hôm nào rảnh cháu về thắp hương.
Lý Công Uẩn còn có tên là gì?
Chú hỏi gì ấy nhỉ? À, tên Lý Công Uẩn! Tên thật là Lý Công Uẩn chứ còn gì nữa. Sinh năm 974, Giáp Tuất. Quê ở Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh. Mẹ là Phạm Thị Ngà. Cha thì… bí ẩn. Chỉ biết sau này được truy tôn là Hiển Khánh Vương. Nghe nói ông nội mình cũng có nói về điều này, chắc là có liên quan đến dòng họ.
- Tên thật: Lý Công Uẩn
- Sinh năm 974 (Giáp Tuất)
- Quê: Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh
- Mẹ: Phạm Th Ngà
- Cha: Không rõ, được truy tôn Hiển Khánh Vương
Đúng rồi, đó là những gì mình nhớ. Hồi nhỏ bà ngoại hay kể chuyện về ông ấy lắm. Lý Thái Tổ… hay sao ấy. Mà sao mình cứ quên mất. Bà ngoại còn kể cả chuyện ông ấy dời đô nữa. Thật là thú vị. Ôi, mình đói rồi. Đi ăn phở thôi. Phở bò tái nhé. Thêm hành nữa. Mình thích ăn hành. À mà, chuyện của Lý Công Uẩn… thôi, để mình tìm đọc lại sách lịch sử vậy. Hay quá, mình lại nhớ ra một điều nữa: ông ấy là người sáng lập ra nhà Lý.
Góp ý câu trả lời:
Cảm ơn bạn đã đóng góp ý kiến! Góp ý của bạn rất quan trọng giúp chúng tôi cải thiện câu trả lời trong tương lai.